Phân bộ Cá voi tấm sừng hàm: Mysticeti Danh_sách_các_loài_trong_bộ_Cá_voi

Bài chi tiết: Mysticeti

Cá voi tấm sừng là một trong hai phân bộ của cá voi Cetacea. Cá voi tấm sừng được đặc trưng bởi có tấm sừng tấm lọc thức ăn từ nước, thay vì có răng. Điều này phân biệt chúng với phân bộ cá voi khác, cá voi có răng hoặc Odontoceti. Cá voi tấm sừng còn sống có răng chỉ trong quá giai đoạn phôi thai. Hóa thạch Mysticeti có răng trước khi tấm sừng tiến hóa. Phân bộ này có chứa 4 họ còn tồn tại và mười lăm loài.

Họ Balaenidae: Cá voi đầu bò

Xem thêm: Balaenidae

Họ Balaenidae có 2 chi còn sinh tồn bao gồm 4 loài. Tất cả các loài trong họ này có đặc điểm bụng và cằm nhẵn, không có rãnh bụng; Về lịch sử phân loại, nó từng được xem là chỉ chứa duy nhất 1 loài cá voi đầu bò. Trong suốt thế kỷ 20, điều này đã gây nhiều tranh cãi trong giới khoa học. Đặc điểm chính để nhận biết chúng là hàm trên có dạng vòm, hẹp. Hình dáng này cho phép hình thành các tấm hàm dài[1] Loài này sử dụng tính năng này bằng cách nổi lên gần bề mặt nước, và thu thức ăn từ nước, sau đó dùng lưỡi để lấy thức ăn từ tấm sừng hàm - một cách lấy thức ăn ngược lại với cá voi xámBalaenopteridae. Thức ăn của chúng là các loài giáp xác nhỏ, chủ yếu là copepod, mặc dù một số loài cũng ăn một lượng đáng kể krill.[2]<onlygồm có>

Chi Balaena Linnaeus, 1758 – 1 loài
Tên thường gọiTên khoa họcHiện trạngSố cá thểPhân bốKích thướcHình ảnh
Cá voi đầu congBalaena mysticetus
Linnaeus, 1758
Phụ thuộc bảo tồn (CD)8.000–9.200
60 tấn
Chi Eubalaena Gray, 1864 – 3 loài
Tên thường gọiTên khoa họcHiện trạngSố cá thểPhân bốKích thướcHình ảnh
Cá voi đầu bò Bắc Đại Tây DươngEubalaena glacialis
Müller, 1776
nguy cấp (EN)300
40–80 tấn
Cá voi đầu bò Bắc Thái Bình DươngEubalaena japonica
Lacépède, 1818
EN200
60–80 tấn
Cá voi đầu bò phương namEubalaena australis
Desmoulins, 1822
Ít quan tâm (LC)7,000
40–80 tấn

</onlygồm có>

Họ Balaenopteridae: Cá voi lưng gù

Xem thêm: Balaenopteridae

Balaenopteridae là một nhóm lớn gồm 9 loài cá voi được xếp vào 2 chi. Chúng gồm các loài thú biển lớn nhất còn sinh tồn như cá voi xanh, loài này có trong lượng có thể lên đến 150 tấn, hai loài khác hơn 50 tấn, và thậm chí loài nhỏ nhất trong nhóm là Cá voi Minke phương bắc cũng đạt đến 9 tấn. Chúng được đặt tên theo tiếng Na Uy có nghĩa là "furrow whale": tất cả các loài trong họ này có một loạt các nếp gấp trên da chạy dọc cơ thể từ bên dưới miệng đến rốn (trừ loài Cá voi Sei, nó có các rãnh nhỏ hơn).[1]

Phân họ Balaenopterinae – 1 chi, 8 loài
Chi Balaenoptera – 8 loài
Tên thường gọiTên khoa họcHiện trạngSố cá thểPhân bốKích thướcHình ảnh
Cá voi xanhBalaenoptera musculus
Linnaeus, 1758
EN10.000–25.000
100–120 tấn
Cá voi BrydeBalaenoptera brydei
Olsen, 1913
Data deficient (DD)90.000–100.000
14–30 tấn
Cá voi MinkeBalaenoptera acutorostrata
Lacépède, 1804
Ít quan tâm (LC)Không rõ
6-11 tấn
Cá voi vâyBalaenoptera physalus
Linnaeus, 1758
EN100.000
45–75 tấn
Cá voi OmuraBalaenoptera omurai
Wada et al., 2003
Không rõKhông rõ[cần hình]
Cá voi EdenBalaenoptera edeni
Anderson, 1879
Không rõKhông rõ[cần hình]
Cá voi SeiBalaenoptera borealis
Lesson, 1828
EN57.000
20–25 tấn
Cá voi Minke Nam CựcBalaenoptera bonaerensis
Burmeister, 1867
CDKhông rõ
6-10 tấn
Phân họ Megapterinae – 1 chi, 1 loài
Chi Megaptera Gray, 1846 – 1 loài
Tên thường gọiTên khoa họcHiện trạngSố cá thểPhân bốKích thướcHình ảnh
Cá voi lưng gùMegaptera novaeangliae
Borowski, 1781
LC80.000
25–30 tấn

Họ Eschrichtiidae: Cá voi xám

Xem thêm: Eschrichtiidae

Cá voi xám được xếp vào trong chính họ của nó do nó có đủ sự khác biệt với right whales và cá voi rorqual. Cá voi xám là loài cá voi tấm sừng hàm duy nhất kiếm thức ăn ở đáy, chúng lọc các sinh vật nhỏ từ bùn đáy biển. Chúng cũng mang thai hơn 1 năm, đây là điều không bình thường của cá voi tấm sừng hàm.[1]

Chi Eschrichtius – 1 loài
Tên thường gọiTên khoa họcHiện trạngSố cá thểPhân bốKích thướcHình ảnh
Cá voi xámEschrichtius robustus
Lilljeborg, 1861
CD26.000
15–40 tấn

Họ Neobalaenidae: Cá voi đầu bò lùn

Xem thêm: Neobalaenidae

Cá voi đầu bò lùn là một loài cá voi tấm sừng hàm, thành viên duy nhất của họ Neobalaenidae[3]. Đầu tiên mô tả bởi John Edward Gray vào năm 1846, nó là loài nhỏ nhất của cá voi tấm sừng hàm, dài từ 6 m-6,5 m và nặng từ 3.000 và 3.500 kg. Mặc dù tên của nó, cá voi lùn phải có thể có nhiều điểm chung với các con cá voi xám và cá voi Balaenopteridae hơn so với những con cá voi đầu cong và cá voi Eubalaena.

Chi Caperea Gray, 1864 – 1 loài
Tên thường gọiTên khoa họcHiện trạngSố cá thểPhân bốKích thướcHình ảnh
Cá voi đầu bò lùnCaperea marginata
Gray, 1846
LCKhông rõ
3-3.5 tấn